TĨNH NGUYỆN HẰNG NGÀY 28/06 LÀM CHỨNG CHO ĐỒNG HƯƠNG
Kinh Thánh: Công Vụ 22:15
“Vì anh sẽ làm chứng cho Ngài trước mặt mọi người, về những việc anh đã thấy và nghe.”
Phân Đoạn Kinh Thánh Nền Tảng: Công Vụ 22:1-23
“Hỡi các anh các cha, hãy nghe điều tôi đương nói với để binh vực mình. Khi chúng nghe người nói tiếng Hê-bơ-rơ, thì càng chăm chỉ bội phần. Người bèn nói rằng: Tôi là người Giu-đa, sanh tại thành Tạt-sơ, trong xứ Si-li-si, nhưng nuôi tại đây, trong thành nầy, học nơi chân Ga-ma-li-ên, đúng theo trong luật pháp của tổ phụ chúng ta. Vốn tôi đầy lòng sốt sắng vì Đức Chúa Trời, cũng như các ngươi hôm nay vậy.(i) Tôi từng bắt bớ phe nầy cho đến chết, bất kỳ đàn ông đàn bà, đều xiềng lại và bỏ tù:(j) Về điều đó, thầy cả thượng phẩm cùng cả hội đồng trưởng lão đều làm chứng cho tôi; vì bởi những người đó mà tôi nhận được các thơ gởi cho anh em thành Đa-mách, là nơi tôi toan đi, đặng bắt trói những người ở đó dẫn về thành Giê-ru-sa-lem để xử phạt. Vả, lúc tôi đương đi đường, gần đến thành Đa-mách, độ ban trưa, thình lình có ánh sáng lớn, từ trên trời giáng xuống, soi sáng chung quanh mình tôi. Tôi té xuống đất, và nghe có tiếng phán cùng tôi rằng: Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, làm sao ngươi bắt bớ ta? Tôi trả lời rằng: Lạy Chúa, Chúa là ai? Ngài phán: Ta là Jêsus ở Na-xa-rét mà ngươi đương bắt bớ đây. Những kẻ đi với tôi thấy ánh sáng rõ ràng, nhưng chẳng nghe tiếng của Đấng phán cùng tôi. Tôi bèn thưa: Lạy Chúa, tôi phải làm chi? Chúa đáp rằng: Hãy chờ dậy, đi đến thành Đa-mách, ở đó người ta sẽ nói mọi điều đã truyền cho ngươi làm. Bởi cớ sự chói lói của ánh sáng đó, thì tôi chẳng thấy được, nên những kẻ cùng đi nắm tay dắt tôi đến thành Đa-mách. Tên A-na-nia kia, là người nhân đức theo luật pháp, được các người Giu-đa trú tại Đa-mách đều làm chứng tốt, có đến tìm tôi; người đứng trước mặt tôi mà nói rằng: Hỡi Sau-lơ, anh tôi, hãy sáng mắt lại. Liền một lúc, tôi được sáng mắt và xem thấy A-na-nia. Đoạn, người nói với tôi rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã định cho anh được biết ý muốn Chúa, được thấy Đấng Công bình và nghe lời nói từ miệng Ngài. Vì anh sẽ làm chứng cho Ngài trước mặt mọi người, về những việc anh đã thấy và nghe. Bây giờ, anh còn trễ nải làm chi? Hãy chờ dậy, cầu khẩn danh Chúa mà chịu phép báp-têm và làm sạch tội lỗi mình đi. Đến lúc trở về thành Giê-ru-sa-lem, tôi đương cầu nguyện trong đền thờ, thì bị ngất trí; thấy Đức Chúa Jêsus phán cùng tôi rằng: Hãy vội vàng, lập tức ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem; vì họ sẽ chẳng nhận lời ngươi làm chứng về ta đâu. Tôi thưa rằng: Lạy Chúa, chính họ biết tôi từng bỏ tù những người tin Chúa và đánh đòn trong các nhà hội nữa. Lại khi Ê-tiên là kẻ làm chứng cho Chúa bị đổ máu, tôi ở đó đành lòng và giữ áo xống những kẻ giết người.(k) Chúa bèn phán cùng tôi rằng: Hãy đi, vì ta toan sai ngươi đi đến cùng dân ngoại ở nơi xa… Chúng chịu nghe người nói đến đó, song đến câu ấy, thì vùng kêu lên rằng: Hãy cất người dường ấy khỏi thế gian! Nó chẳng đáng sống đâu! Chúng kêu la, cổi áo, hất bụi bay lên giữa khoảng không.”
Dù bị đám đông người Do Thái đánh đập dã man, gào thét đòi giết, Sứ đồ Phao-lô vẫn bày tỏ tình yêu thương đối với họ qua lời tự biện hộ của mình. Mở đầu, ông gọi họ là các anh, các cha và trình bày nhân thân để xác định ông và họ là người đồng hương (câu 1-3a). Ông tự giới thiệu trước đây ông đầy lòng nhiệt thành với Đức Chúa Trời, nhưng thiếu hiểu biết nên đã bắt trói và truy sát những người tin theo Chúa Giê-xu (câu 3b-5). Hình ảnh của họ hiện tại chính là hình ảnh của ông trong quá khứ nên ông cảm thông với họ trong việc bị đối xử tàn nhẫn. Kế tiếp, ông tận dụng cơ hội để làm chứng về Chúa Giê-xu. Bắt đầu từ sự kiện gặp Chúa Giê-xu phục sinh trên đường đến Đa-mách; ông nhìn thấy ánh sáng từ trời chói lòa bao phủ, cuộc đối thoại lạ lùng của ông và Chúa Giê-xu, ông bị mù mắt và được sáng mắt lại nhờ ông A-na-nia cầu nguyện. Chúa kêu gọi ông và trao sứ mệnh v.v… Ông đầu phục và đáp ứng tiếng gọi của Ngài; kêu cầu Danh Chúa, chịu phép Báp-têm (câu 6-16). Sau sự kiện này, ông đi về Giê-ru-sa-lem, đến Đền thờ để làm chứng cho anh em Do Thái nhưng Chúa đã bảo ông phải nhanh chóng rời đi vì những người Do Thái sẽ không nghe lời chứng của ông. Dù ông đưa ra nhiều lời biện hộ với Chúa nhưng Ngài quyết sai ông đến với các Dân ngoại (câu 17-22).
Nghe đến đây, đám đông nổi lên gào thét “Hãy cất người dường ấy khỏi thế gian! Nó chẳng đáng sống đâu!” Rõ ràng Chúa là Đấng toàn tri. Ngài nhìn thấy lòng người và biết trước phản ứng của họ. Những người Do Thái cứng lòng này chỉ muốn nghe những gì hợp tai mình. Việc đề cập đến Dân ngoại đụng chạm lòng kiêu hãnh khiến họ điên tiết. Mặc dù tuyển dân được chọn để làm ánh sáng dẫn lối cho các Dân ngoại thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật nhưng phần lớn người Do Thái khước từ mệnh lệnh và tự cô lập với Dân ngoại. Dù vậy, kế hoạch của Đức Chúa Trời vẫn được thành tựu, Dân ngoại đã nghe được Phúc Âm qua những tín hữu người Do Thái như các Sứ đồ Phao-lô, Phi-e-rơ…
Chúa kêu gọi mỗi Cơ Đốc nhân sống làm chứng nhân cho Ngài. Dù sẽ có nhiều người từ chối Phúc Âm nhưng chúng ta cần bày tỏ tình yêu và sự cảm thông với họ, tiếp tục làm chứng về Chúa Giê-xu phục sinh cho họ. Theo gương Sứ đồ Phao-lô, chúng ta nên bắt đầu từ điểm người khác đang quan tâm, và Chúa Thánh Linh là Đấng toàn tri sẽ dẫn dắt chúng ta trong việc làm chứng về Chúa.
Bạn có như dân Do Thái, đang tự cô lập với những người chưa biết Chúa không?
Cầu Nguyện: Lạy Chúa Thánh Linh, Đấng năng quyền và toàn tri! Xin giúp con sốt sắng làm chứng về Chúa Giê-xu phục sinh cho một người trong tháng tới này. Amen.