Tĩnh Nguyện Hằng Ngày 03/11 NÊ-HÊ-MI NGƯỜI LÃNH ĐẠO GIỎI


0
Categories : Devotions
https://static.oneway.vn/600x600/radio/2017/11/oneway.vn_tnhn_17307.jpg

Kinh Thánh: Nê-hê-mi 2:18 “Tôi cũng thuật cho chúng làm sao tay nhân từ của Đức Chúa Trời tôi đã giúp đỡ tôi, và các lời vua đã nói cùng tôi. Chúng nói: Hè, ta hãy trỗi dậy và xây sửa lại! Vậy, chúng được vững chắc trong ý nhất định làm công việc tốt lành này”

Phân Đoạn Kinh Thánh: Nê-hê-mi 2:1-18
Đang năm thứ hai mươi đời vua Ạt-ta-xét-xe, tháng Ni-san, rượu sẵn ở trước mặt người, tôi lấy rượu dâng cho vua; trước tôi không hề có bộ buồn rầu tại trước mặt người. Vua nói với tôi rằng: Nhân sao ngươi mặt mày buồn, dầu mà ngươi không có bịnh? Điều đó chỉ là sự buồn rầu trong lòng mà thôi. Bấy giờ tôi lấy làm sợ hãi lắm, bèn nói với vua rằng: Nguyện vua vạn tuế! Lẽ nào mặt tôi không buồn, khi cái thành, là nơi có mồ mả của tổ phụ tôi, bị phá hoang, và các cửa thành bị lửa thiêu đốt? Vua hỏi tôi rằng: Ngươi cầu xin cái gì? Tôi bèn cầu nguyện cùng Đức Chúa của các từng trời, rồi tâu với vua rằng: Nếu vua thấy điều đó là tốt lành, nếu kẻ tôi tớ vua được ơn trước mặt vua, xin vua hãy sai tôi về Giu-đa, đến thành có mồ mả của tổ phụ tôi, để tôi xây cất thành ấy lại. Đang khi ấy hoàng hậu cũng ngồi bên cạnh vua. Vua bèn hỏi tôi rằng: Ngươi đi đường lâu chừng bao nhiêu, và khi nào ngươi trở về? Vậy, vua đẹp lòng sai tôi đi, và tôi định nhựt kỳ cho người. Tôi cũng thưa với vua rằng: Nếu điều nầy được đẹp lòng vua, xin vua hãy trao cho tôi những bức thơ truyền các quan tổng trấn bên kia sông cho phép tôi đi ngang qua cho đến khi tôi tới Giu-đa; lại ban chiếu chỉ cho A-sáp, kẻ giữ rừng vua, truyền người cho tôi gỗ làm khuôn cửa của thành điện giáp với đền, và làm vách thành, cùng nhà mà tôi phải vào ở. Vua bèn ban cho tôi các điều đó, tùy theo tay nhân lành của Đức Chúa Trời tôi giúp đỡ tôi. Vậy, tôi đến cùng các quan tổng trấn bên kia sông, vào trao cho họ những bức thơ của vua. Vả, vua có sai những quan tướng và quân kỵ đi với tôi. Khi San-ba-lát, người Hô-rôn, và Tô-bi-gia, là kẻ tôi tớ Am-môn, hay điều đó, thì lấy làm bất bình vì có người đến đặng tìm kiếm sự hưng thạnh của dân Y-sơ-ra-ên. Vậy, tôi đến Giê-ru-sa-lem và ở tại đó ba ngày. Tôi và mấy người cùng theo tôi, bèn chỗi dậy ban đêm; tôi chẳng cho ai hay biết sự gì Đức Chúa Trời đã khiến lòng tôi toan làm vì Giê-ru-sa-lem; lại ngoài con thú tôi cỡi thì chẳng có con thú nào khác ở với tôi. Ban đêm tôi ra nơi cửa Trũng, đối ngang suối chó rừng, và đến cửa Phân, xem xét các vách thành của Giê-ru-sa-lem bị hư nát, và các cửa nó bị lửa thiêu đốt. Đoạn, tôi đi qua cửa Giếng, và đến nơi ao của vua; song không có nơi nào đặng cho con thú tôi cỡi đi ngang qua được. Kế đó, ban đêm tôi bắt đường khe đi lên, xem xét vách thành; rồi tôi thối lại, vào nơi cửa Trũng mà trở về. Vả, các quan trưởng không hiểu tôi đi đâu, nào rõ tôi làm gì; và đến chừng ấy, tôi chưa tỏ ra cho người Giu-đa, hoặc cho những thầy tế lễ, hoặc cho kẻ quyền quí, hoặc cho quan trưởng, hay là cho các người khác lo làm công việc, được biết gì đến. Tôi bèn nói với chúng rằng: Các ngươi hãy xem tình cảnh khổ nạn của chúng ta đang đây; Giê-ru-sa-lem bị phá hoang, và các cửa nó bị lửa thiêu đốt. Hãy đến, xây cất các vách thành Giê-ru-sa-lem lại, hầu cho chúng ta chẳng còn bị sỉ nhục nữa. Tôi cũng thuật cho chúng làm sao tay nhân từ của Đức Chúa Trời tôi đã giúp đỡ tôi, và các lời vua đã nói cùng tôi. Chúng nói: Hè, ta hãy chỗi dậy và xây sửa lại! Vậy, chúng được vững chắc trong ý nhất định làm công việc tốt lành nầy.

Xứ Giu-đa bị đế quốc Ba-by-lôn xâm chiếm, thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị tàn phá năm 586 T.C. Hầu hết người Giu-đa bị lưu đày qua Ba-by-lôn (I-rắc ngày nay). Năm 539 T.C., đế quốc Ba Tư lật đổ đế quốc Ba-by-lôn. Năm sau, họ cho phép người Do Thái hồi hương dưới sự hướng dẫn của ông Xô-rô-ba-bên, và đã xây lại đền thờ trong hoàn cảnh khó khăn. Ông Nê-hê-mi thuộc thế hệ con cháu của những người bị lưu đày, ông đang làm quan tửu chánh (dâng rượu) cho hoàng đế Ba Tư.

 Năm 444 T.C., ông nghe một người từ Giê-ru-sa-lem đến nói rằng dù đã hơn 90 năm sau đợt hồi hương đầu tiên, vách thành vẫn đổ nát, ông đau buồn kiêng ăn, cầu nguyện, xưng tội (chương 1). Bốn tháng sau, khi đang dâng rượu, thấy vẻ mặt buồn rầu của ông Nê-hê-mi nên vua hỏi lý do. Bị hỏi bất ngờ, ông cầu nguyện thầm với Đức Chúa Trời rồi thưa với vua rằng ông muốn xin trở về xây dựng lại thành Giê-ru-sa-lem (câu 4-5). Ông trình bày rõ ràng về kế hoạch thực hiện, thời gian đi và về, xin các văn thư cần thiết, xin gỗ để xây dựng (câu 6-8), và vua đã chấp thuận. Điều này chứng tỏ trong khi chờ cơ hội Chúa cho để trình bày với vua, ông đã chuẩn bị sẵn kế hoạch. Khi về đến Giê-ru-sa-lem, ông Nê-hê-mi âm thầm đi quan sát vách thành để nắm vững tình hình cụ thể. Rồi ông tập hợp các quan chức địa phương để chia sẻ khải tượng, ông biến khải tượng của riêng ông thành khải tượng chung, khiến mọi người đồng lòng trỗi dậy cùng nhau làm việc (câu 11-18).

Ông Nê-hê-mi là một lãnh đạo giỏi vì có các đặc điểm sau: Ông không cậy sức mạnh hoặc tài năng riêng của mình nhưng hết sức kính sợ và nhờ cậy Chúa; ông có tinh thần hy sinh dấn thân cao độ, dù đang sống an nhàn nhưng ông sẵn sàng từ bỏ để dấn thân cho công việc Chúa; ông không làm việc tùy hứng nhưng có khải tượng và biến khải tượng thành thực tế qua những hành động cụ thể; ông không làm việc một mình nhưng biết khéo léo huy động mọi người để họ tự nguyện tham gia vào chương trình chung. Mỗi chúng ta đều được Chúa đặt để vào vai trò lãnh đạo gia đình, nhóm nhỏ, Hội Thánh… Chúng ta cần học theo gương lãnh đạo của ông Nê-hê-mi để mang lại kết quả tốt cho công việc Chúa.

Bạn còn thiếu đặc điểm nào trong công tác lãnh đạo của mình?

Cầu Nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con học theo những mỹ đức trong công tác lãnh đạo của ông Nê-hê-mi để con trở nên công cụ hữu ích cho Nhà Ngài. Amen

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *